Ngành cơ khí Việt Nam thiếu chiến lược phát triển bài bản: Kỳ 2 - Doanh nghiệp cơ khí đang cần gì?
Hiện nay, điều mà các DN cơ khí cần nhất là việc làm, thị trường tiêu thụ sản phẩm. Chính vì thế, Nhà nước cần tạo được nhiều đơn hàng cho các DN cơ khí, ban hành các chính sách đồng để bảo vệ được thị trường. Trong bối cảnh từ nay đến năm 2030, đất nước ta vẫn còn rất nhiều các dự án lớn, đặc biệt là các dự án nhà máy nhiệt điện. Nếu Nhà nước có những chính sách khuyến khích phù hợp và kịp thời thì đây thực sự là “cơ hội vàng” cho các doanh nghiệp cơ khi trong nước.
Nhà máy nhiệt điện và cơ hội cho doanh nghiệp nước nhà?
Theo quy hoạch Điện VII điều chỉnh được phê duyệt, từ nay đến 2030, sẽ có 12 dự án nhiệt điện đốt than công suất tổ máy 600MW cần thực hiện do các tập đoàn, tổng công ty nhà nước làm chủ đầu tư. Trong đó, cũng theo một báo cáo mới đây của Tổng cục Năng lượng (Bộ Công Thương), nhu cầu năng lượng vẫn duy trì tăng ở mức tương đối cao trong giai đoạn 2015-2035 để đáp ứng nhu cầu tăng trưởng kinh tế. Cụ thể, với nhiệt điện than: năm 2020, tổng công suất khoảng 26.000MW, đến năm 2025 là 47.600MW và con số này là 55.300MW vào năm 2030, chiếm khoảng 53,2% điện sản xuất. Như vậy có thể thấy, nhu cầu xây dựng các nhà máy nhiệt điện than là rất lớn.
Phân tích thêm về tác động của một nhà máy nhiệt điện than, ông Nguyễn Văn Thụ - Chủ tịch Hiệp hội Doanh nghiệp cơ khí Việt Nam (VAMI) cho biết: trung bình với một nhà máy nhiệt điện đốt than 1200MW, sẽ có tổng mức đầu tư khoảng 1,7-1,9 tỷ USD. Trong đó giá trị gói thầu khoảng 1,4 tỷ USD, tương đương gần 30 nghìn tỷ đồng. Tổng khối lượng vật tư thiết bị khoảng 110.000 tấn, riêng khối lượng gia công chế tạo trong nước khoảng 60.000 tấn. Với một dự án nhiệt điện 1200MW, sẽ tạo công ăn việc làm ổn định cho khoảng 3000 lao động trong 4 năm, với mức thu nhập bình quân khoảng 10 triệu đồng/người/tháng. Mỗi năm, trung bình sẽ giải ngân 7000-8000 tỷ đồng, trong đó giá trị của các phần công việc trong nước sản xuất và cung cấp chiếm khoảng 35% giá trị. Như vậy, một nhà máy nhiệt điện đốt than công suất 1200MW được triển khai đầu tư xây dựng có tác động rất lớn tới sự phát triển kinh tế xã hội tại địa phương cũng như đất nước. Cái chính là, các đơn vị trong nước có phấn đấu được làm tổng thầu EPC để góp phần gia tăng tỷ lệ nội địa hóa thiết bị trong nước lên hay không? Điều này lại quay trở lại câu chuyện đơn đặt hàng của nhà nước. Bởi “đầu ra” chính là đây. Hàng trăm ngàn tấn thiết bị trị giá nhiểu triệu đô la sẽ có nguy cơ rơi vào bàn tay tổng thầu nước ngoài nếu như nhà nước không có những chính sách cụ thể, những “đơn đặt hàng” kịp thời để hỗ trợ các doanh nghiệp trong nước.
Lợi ích khi nhà thầu EPC trong nước thực hiện là rất lớn
Hiện nay,tổng cộng có 20 nhà máy điện than (gồm 49 tổ máy) đang vận hành thì có 18 nhà máy do nhà thầu nước ngoài thực hiện. Chỉ có 2 nhà máy do nhà thầu trong nước (Tổng công ty Lắp máy Việt Nam Lilama) thực hiện, đó là dự án nhiệt điện Uông Bí mở rộng gồm 1 tổ máy 300MW và nhiệt điện Vũng Áng 1 gồm 2 tổ máy 600MW.
Lắp đặt máy biến áp dự án nhà máy nhiệt điện Sông Hậu 1
Ông Nguyễn Văn Thụ cho biết: các công việc do nhà thầu trong nước thực hiện thường bị các nhà thầu EPC nước ngoài ép giá xuống mức thấp. Bên cạnh đó, phần lớn giá trị trong việc xây dựng các nhà máy điện đều thuộc về các nhà thầu nước ngoài. Các ngành chế tạo, sản xuất thiết bị phụ trợ không có cơ hội phát triển do các nhà thầu EPC nước ngoài không muốn sử dụng sản phẩm trong nước.
Trong khi đó, lợi ích khi nhà thầu EPC trong nước thực hiện dự án nhà máy điện là rất lớn. Thứ nhất, giá trị hợp đồng EPC cạnh tranh hoặc thấp hơn nhiều so với nhà thầu EPC nước ngoài. Do đó, có thể hỗ trợ chủ đầu tư giảm chi phí và rút ngắn thời gian thu hồi vốn. Ngoài ra, nhà thầu trong nước thi công sẽ giúp chủ động trong công tác xây dựng và lắp đặt, là điều kiện tiên quyết để hoàn thành dự án đúng tiến độ.
Đồng thời, việc này cũng giúp chủ động trong việc thực hiện chủ trương, đường lối của Đảng và Chính phủ trong việc tăng tỷ lệ nội địa hóa và sử dụng sản phẩm trong nước. Tạo cơ hội cho các doanh nghiệp trong nước phát triển theo chiều sâu, phát triển các ngành công nghiệp phụ trợ.
Tuy nhiên, không phải dễ để các đơn vị trong nước có thể “vào” được các dự án này. Chính vì thế, ông Thụ đề xuất, cần phải kiên quyết duy trì chủ trương, đường lối của Đảng, Nhà nước về việc tăng cường sử dụng vật tư hàng hóa sản xuất trong nước. Chủ đầu tư của các dự án khi lập hồ sơ yêu cầu cho các gói thầu EPC cần nới lỏng các điều kiện, yêu cầu về năng lực, kinh nghiệm thực hiện các hệ thống thiết bị phụ trợ của nhà máy nhiệt điện để các nhà sản xuất trong nước có nhiều cơ hội hơn trong việc tham gia vào các dự án. Ngoài ra, cần tạo cơ chế đặc thù và hành lang pháp lý để hỗ trợ chủ đầu tư, tổng thầu trong nước mạnh dạn đưa những sản phẩm trong nước sản xuất được vào sử dụng cho dự án. Các doanh nghiệp cơ khí trong nước cần phát triển theo hướng chuyên môn hóa sâu, hợp tác rộng, tránh đầu tư trùng lặp dẫn tới cạnh tranh nội bộ, làm giảm cơ hội cùng tham gia vào các dự án lớn.
Việt Nam có tốc độ tăng trưởng nhu cầu tiêu thụ điện năng tương đối cao với hệ số đàn hồi (tăng trưởng tiêu thụ điện/GDP) là khoảng 2 lần. Việc thúc đẩy các nhà máy cơ khí trong nước tham gia chế tạo các thiết bị nội địa hóa hỗ trợ cho ngành công nghiệp sản xuất điện là một trong những nhiệm vụ trọng tâm.
Nguyễn Duyên - Duy Tình